Thứ Ba, 4 tháng 8, 2015

DANH NHÂN THẾ GIỚI TRƯƠNG VĨNH KÝ

NP: ʺ Hãy đi đi và hãy trở về, như những con chim, biết tha những cọng cỏ khô làm tổ hạnh phúc cho dân tộc mìnhʺ (TVK)
  Đây là câu dặn dò các học trò của Trương Vĩnh Ký khi họ lên đường du học, một kim chỉ nam cho bất cứ học trò nào vào thời hiện tại.
 Trương Vĩnh Ký là thần tượng không bao giờ phai nhạt của tôi.
Xin giới thiệu bài viết của Nguyễn Vy Khanh trên Nghiên cứu Lịch Sử tháng 08/2015:

 ______________

Trương Vĩnh Ký và chuyến Âu‐du 1863‐1864

Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Ảnh khucquanhanh.vn
Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Ảnh khucquanhanh.vn
Nguyễn Vy Khanh
 Sau khi ba tỉnh miền Đông mất vào tay người Pháp (Hiệp  ước Bonard 5‐6‐ 1862, vua Tự  Đức ký 16‐4‐1863), vua Tự Đức đã gởi sứ bộ Phan Thanh Giản sang Pháp điều đình xin chuộc lại các tỉnh đó. Phái đoàn do Phan Thanh Giản làm chánh sứ (‘Như Tây chánh sứ’), Phạm Phú Thứ  phó‐sứ  và Ngụy Khắc  Đản bồi‐sứ, tổng cộng 65 người. Phái  đoàn rời kinh thành Huế ngày 27‐6‐1863 trên chiếc tàu Echo và chính thức rời Sài‐Gòn ngày 4‐7 trên tàu chiến Européen (thuyền trưởng là Henri Rieunier), chuyến hải‐hành  đi qua Tân‐ gia‐ba, Sumatra, Tích‐lan, Aden, Ai‐cập, Jérusalem, La‐mã,  đảo Corse. Khi  đến kinh Suez ngày 17‐8, lúc bấy giờ  kinh chưa đào, phái đoàn đổi sang đi xe lửa từ  Suez  đến Alexandrie,  được cựu phó vương Ismaïl‐Pacha tiếp đón, ở lại Ai‐cập đến cuối tháng 8‐1863  đổi sang tàu Labrador  để  đi Toulon. Ngày 13‐9‐1863, tàu  đến Paris sau khi ghé Toulon và Marseille. Sau gần hai tháng chờ  đợi, ngày 5‐11‐1863, phái  đoàn mới  được vào triều kiến Pháp hoàng Napoléon III ở điện Tuileries. Từ  10‐11  đến 22‐11‐1863 sứ  bộ  đến Tây‐ban‐nha thương thảo (Palanca đồng ký Hiệp ước 1862) rồi lên đường về, ghé Ý‐đại‐lợi. Ngày 2‐12‐1863, Trương Vĩnh Ký yết kiến Giáo hoàng Pio IX  ở  Roma. Ngày 18‐3‐1864 phái  đoàn về  tới Saigon và ngày 28‐3  đến kinh‐đô Huế. Chuyến đi được xem như thất bại vì vua Napoléon III và chính phủ Pháp đã không hứa hẹn gì về việc xét lại hiệp ước! Tháng Tư  1864, triều  đình Pháp muốn bỏ  rơi Cochinchine, chính Henri Rieunier  đứng đầu nhóm thuyết phục nhà vua giữ lại (ký bút hiệu H. Abel xuất bản 2 tập La Question de Cochinchine au Point de vue des intérêts français và Solution pratique de la Question de Cochinchine ou Fondation de la politique française dans lʹExtrême‐Orient).
   Về  chuyến Âu‐du này, chánh‐sứ  Phan Thanh Giản  đã có một số  bài thơ  trong tập Lương Khê Thi Thảo. Phó‐sứ  Phạm Phú Thứ khi trở về đến kinh thành Huế đã dâng lên vua Tự Đức tập Như Tây Sứ  Trình Nhật Ký (còn  được ghi là Giá Viên Biệt Lục, Tây Hành Nhật Ký và Tây Phù Nhật Ký). Phạm Phú Thứ  viết tập Nhật Ký ghi chép việc từng ngày trong chuyến công du, Phan Thanh Giản và Ngụy Khắc Đản duyệt lại (1). Ông còn là tác‐giả tập thơ Tây Phù Thi Thảo liên hệ  đến chuyến đi này.
Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn cho sứ bộ Phan Thanh Giản theo lời yêu cầu của chánh‐sứ họ Phan (2) và có viết một bài về chuyến đi bằng tiếng Tây‐ban‐nha ‐  ʺAlguna reflexions de su viaje por Europaʺ, một bài tiếng Pháp đăng trên tạp chí Paris (Novembre 1863) và theo tương truyền ông còn viết Nhựt trình  đi sứ  Lang‐sa (1863). Khoảng thời gian đó, một số  tạp chí bác học Âu‐châu  đã  đăng bài của ông như  Bulletin de la Société de géographie (1863) (3). Ông cũng  được cử  làm hội viên của Hội chuyên khảo về Con Người (Société dʹethnographie de Paris), và Hội chuyên học á‐châu (Société asiatique). Năm 1873, Trương Vĩnh Ký đại diện cho Việt‐Nam và là thành viên ban tổ  chức Hội nghị  quốc tế  đầu tiên về  Đông phương học (Congrès international des orientalistes) gồm 33 nước tham dự. Đến năm 1889, nhân Hội chợ quốc tế (Expo) tại Paris, Trương Vĩnh Ký lại  đại diện Việt‐ Nam dự Hội nghị quốc tế về dân tộc học (Congrès international des sciences ethnographiques).

Chủ Nhật, 2 tháng 8, 2015

LÁ THƯ NEPAL 15: NHẠC THẦN CÀN THÁT BÀ

NHẠC THẦN DU LÃNG GANDARVA VÀ CHIẾC SARANGI


 
Huyền thoại Ấn độ kể rằng Indra (Đế Thích, vua của cõi trời) luôn có một vị thần đi theo hầu nhạc, gọi là Nhạc Thần. Vị thần này còn có tên khác là Hương thần vì chỉ sống bằng mùi hương đồng thời thân thể cũng tỏa ra hương thơm kỳ lạ. Tên của vị thần này là Gandarva, Hán dịch là Càn Thát Bà, là một trong Thiên Long Bát Bộ mà Kim Dung mượn ý để sáng tác nên tuyệt phẩm nhất nhì của ông.
Ngày trước mình đọc huyền thoại cứ nghĩ rằng Càn Thát Bà là tiên , là thần thánh không phải người phàm, phiêu diêu thoát tục, không bao giờ có thực. Mình lầm.
Khoảng năm 2006, mình ở trọ tại khu vực ngoại ô Tokha của Kathmandu, cửa ngõ đi vào vùng núi phía Tây Bắc thủ đô. Một trưa hè nọ, trải đệm ngoài ban công nằm lơ đãng thả hồn theo những nắm mây trời trắng bông trôi bảng lảng trên trời cao bỗng nghe tiếng réo rắt của một nhạc cụ dây hòa quyện một giọng hát dày dạn phong sương. Nhạc hay quá, mình năm im nhắm mắt lại mà thưởng thức. Đến khi giật mình vì cảm thấy tiếng nhạc rời xa, bật ngồi dậy thì chỉ thấy một bóng người khuất dần trong ngõ hẻm quanh co.
Mình bắt đầu tò mò và dò hỏi. Đến khi phát hiện ra sự thực thì suýt nhảy cẫng lên mừng rỡ. Ở Nepal, nhất là vùng núi, có một giai cấp gọi là Gandarva (Càn Thát Bà) chuyên lang thang chơi nhạc và sống bằng sự hảo tâm của mọi người. Quả đúng thật là vị thần chơi nhạc và sống bằng hương của Đế Thích trong huyền thoại.

Một Càn Thát Bà